Truyện tình yêu Mối tình đầu của tôi

Nếu yêu có nghĩa là thương, là hờn, là giận, là ghen tuông... thì chắc chắn, tôi là người biết yêu sớm nhất trần gian! Tôi yêu từ năm lên sáu, khi đang học vỡ lòng.
***
Người tôi yêu, tên Hiền, cô bé xinh đẹp nhất trên đời, cùng học lớp vỡ lòng, cũng là người hàng xóm của tôi.
Lớp vỡ lòng do thầy Tuân đảm trách. Nhà thầy Tuân ở cùng phố với tôi và Hiền, phố Lê Bình. Đó là một ông già béo phịch, hói và lùn. Đặc biệt thầy có cái mũi rất to, sần sùi, đỏ như một trái cà chua. Cái mũi của thầy Tuân rất nhạy cảm. Mỗi khi thầy giận, nó nở to một cách khủng khiếp, sần tấy lên, xạm đen lại, hệt một quả cam sành. Cái mũi của thầy là nỗi sợ hãi, ám ảnh ghê gớm đối với tất cả lũ trẻ chúng tôi, nhất là Hiền. Không hiểu vì sao thầy Tuân không ưa Hiền. Thầy hay xoi mói, để ý cô bé nhiều hơn so với những học trò khác. Có lẽ là do Hiền quá xinh đẹp, quá nổi bật với cái dáng cao gầy, mảnh khảnh quá khổ. Với nữa, lúc nào Hiền cũng mặc váy, đặc biệt là luôn cài một cái chiếc băng đô đỏ trên đầu.
Vợ thầy Tuân bán nước mắm ngoài chợ. Chắc chắn đó là nỗi xấu hổ lớn lao trong cuộc đời thầy. Bởi thế, thầy Tuân đặc biệt dị ứng với cụm từ "bán nước mắm".
Một hôm Hiền đang mải chơi với một con bọ cam xanh biếc rất dễ thương, tình cờ bay đến chỗ cô, thì thầy Tuân nhìn thấy. Thầy gọi cô lên bảng. "Năm cộng năm bằng mấy? Thầy hỏi. "Thưa thầy... bằng mười". Hiền lúng búng. "Mấy?' Thầy quát. "Thưa thầy... mười một". Cái mũi của thầy bắt đầu ửng lên, chành ra. Thầy Tuân bắt Hiền đặt hai bàn tay lên bàn, thầy cầm một cái thước gỗ to, đen bóng, dứ dứ, nhịp theo mỗi câu hỏi. Cái thước ấy đã bao lần thầy vụt vào mông, vào người, vào tay chúng tôi. Đau lắm. Đó là hình phạt hãi hùng nhất đối với bất cứ ai. "Tay nào bắt bọ? Nói?!". "Tại sao không thuộc bài?". Mặt Hiền xanh mét, toàn thân run bắn... Cái thước trong tay thầy Tuân dơ lên thật cao.
"Nói!" Hiền co rúm người, nước từ đâu đó chảy xuống đôi chân để trần của cô hai dòng sáng loáng.
"Tuân bán nước mắm!" Tôi hét lên. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra nữa. Chỉ biết, trước khi trận mưa thước vụt vào đầu, vào người, tôi chợt nhìn thấy cái mũi của thầy Tuân bỗng nở to lên một cách khủng khiếp, đỏ tấy lên, rồi tím đen lại. Thầy nhìn tôi trân trân. Cái nhìn của kẻ chưa thấy ma bao giờ! Nhưng tôi không thèm bận tâm. Tôi nhìn thấy đôi chân trắng ngần, lấp lánh nước vụt chạy ra xa ...

***
Nàng không yêu tôi. Nàng hờ hững một cách hết sức tự nhiên. Mặc dầu vậy, tình yêu của tôi dành cho nàng không vì thế mà vơi cạn. Ngược lại, tôi ngày càng yêu nàng đắm say. Và có lẽ, tình yêu của tôi đã có thể được đền đáp nếu như hắn không xuất hiện. Hắn đã chen vào giữa hai chúng tôi, trở thành nhân vật chính, đẩy tôi ra rìa.
Hè năm sau, chia tay lớp vỡ lòng khủng khiếp, chúng tôi cùng lên lớp một, hắn bỗng nhiên xuất hiện trong khu phố chúng tôi. Quần soóc , áo kẻ ca rô đen trắng, gương mặt điển trai ra dáng thị thành. Đấy là tất cả những gì tôi cảm nhận khi lần đầu tiên gặp hắn.
Đó là một buổi chiều định mệnh. Chúng tôi, tôi và nàng, đang bên nhau, chuẩn bị chơi trò "mẹ con". Hắn xuất hiện, rất tự nhiên với một cục đất sét màu vàng nâu trên tay và lời đề nghị được cùng chơi. Sau màn giới thiệu tên, hắn chê trò chơi "mẹ con" của chúng tôi không hay, nặn đất sét hay hơn, rồi ngay lập tức, hắn véo một cục đất sét nhỏ bắt đầu vê, nặn. Mười ngón tay của hắn như có ma. Cục đất sét trong tay hắn thoáng chốc đã trở thành con hươu có cái cổ cao nhòng. Lại nữa, chỉ một loáng sau, một cục sét nhỏ khác đã biến thành một chú chó. Một chú chó gầy dơ xương, ốm tong teo, trông thực đáng thương nhưng cực kỳ sinh động. "Tớ thích một con bướm cơ"! Nàng nói. Ngay lập tức một con bướm có đôi cánh mỏng tang, hai cái râu dài được đặt trịnh trọng trước mặt nàng. Con bướm sống động đến nỗi như nó sắp sửa vỗ cánh bay lên. "Ôi! Mê tơi"! Nàng thốt lên.
... Có một cái gì đó đang vò xé trái tim tôi, làm tôi đau đớn cực kỳ. Tôi nhìn hắn, nhìn những con vật bằng đất sét hắn vắt rất đẹp và sống động, rồi nhìn nàng đang tròn xoe mắt ngắm nhìn chú bướm, chợt nhận ra tôi đã mất nàng. Trẻ con vốn trong trẻo và tốt bụng. Bởi thế trong tôi không chứa chất tình cảm đố kị, ganh ghét, nhưng tôi cảm nhận rất rõ mình vừa bị tước mất một thứ gì đó thật ý nghĩa, thật lớn lao! Cảm giác đó làm tôi đau nhói và buồn vô hạn.
Ít nhất thì buổi chiều hôm đó tôi cũng đã không thể chơi trò "mẹ con" cùng nàng. Trò chơi mà lúc nào tôi cũng thấy thích thú và đầy hứng khởi. Nàng làm mẹ. Tôi làm bố - Tất nhiên! Con là một cuộn vải nhỏ được chúng tôi tự làm, trông hệt một chú búp bê, có khăn quàng đỏ ở cổ hẳn hoi. Tôi lấy một chiếc chiếu đôi, uốn vòm cong làm nhà. Ba chúng tôi - Bố, mẹ và con ở trong nhà, nấu cơm hoặc khâu vá, hoặc làm bất kỳ chuyện gì đó. Chơi chán, nàng nằm ru con ngủ. Những lúc đó, tôi bỏ ra ngoài, đi loanh quanh, lăng xăng ngó nghiêng lâng láo hệt như một chú gà trống hay một con sói... trông coi cái tổ ấm của mình. Tôi thích nhất trò chơi đó, bởi chỉ có tôi và nàng tham gia, chỉ duy nhất mình tôi được ở bên nàng. Với nữa, khi đi quanh quanh nhà canh chừng mẹ con nàng ngủ, tôi cảm thấy mình thực sự là kẻ mạnh mẽ, đầy uy lực, đang làm một công việc hết sức trọng đại và trách nhiệm.

Tuổi thơ tôi gắn với Nàng bởi rất nhiều những trò chơi. Cuối dãy phố chúng tôi ở có một góc ngã tư. Ở đó có một khoảng đất trống, có vòi nước công cộng mà mỗi sáng, mỗi chiều tối người trong phố thường ra xếp hàng gánh nước. Cột nước, cũng là một cái cột mốc, xây bằng xi măng hình trụ tứ diện. Cái cột được xây từ lâu lắm rồi, cũ xì, nhẵn thín. Trên một mặt cột có ghi hàng chữ: "T.P.H.A.B.R.C.P". Chẳng biết sao, tất cả lũ trẻ trong phố chúng tôi đều đọc là: "Thằng Pháp hay ăn bún rau cháo phở". Cái cột mốc ấy, ngoài tôi ra, chẳng ai để ý. Góc ngã tư có cái cột đèn, cũng bằng xi măng, xám mốc, cũ kỹ, trên có ngọn đèn tròn, tối tối buông một thứ ánh sáng tù mù, vàng ệch.
Buổi tối, bọn trẻ chúng tôi thường tập trung chơi ở đó. Thôi thì đủ trò: đánh trận giả, đánh chuyền chắt, rồng rắn, bịt mắt bắt dê... Đôi khi lũ con gái tụ tập múa hát. Cũng hiếm hoi, bởi mỗi lần múa hát chúng phải nhờ cha tôi đệm đàn. Cha tôi có cây đàn măng-đô-lin có nhiều dây bằng sợi thép lấy ra từ dây phanh xe đạp, nhưng tiếng đàn nghe vẫn rất hay. "Là là rê mi rê...". Hoặc bài: "Xòn xòn xòn đô xòn. Xòn xòn xòn đố rê...". Tiếng đàn réo rắt, âm vang. Lũ con gái múa rất dẻo, rất đẹp. Mỗi lần như thế bọn con trai chúng tôi thường bỏ chơi trận giả hoặc kéo co, kéo đến bu quanh bọn con gái xem. Cả những người đi đường cũng vậy. Vui đáo để.
Tôi không thích múa hát nhưng vì nàng là nhân vật trung tâm (bao giờ cũng vậy): đôi chân dài, thẳng băng như chân sếu, chiếc váy xinh xắn, chiếc băng đô đỏ cài trên đầu, nên lần nào tôi cũng có mặt, thậm chí, còn biểu lộ ra mặt niềm tự hào vì mình là bạn của nàng nữa mỗi khi có ai đó chỉ trỏ, hỏi han.
Tất cả những trò chơi vui vẻ đối với tôi đều trở nên nhạt nhẽo, chán ngắt từ khi hắn xuất hiện. Nàng quá ngưỡng mộ tài năng của hắn, bởi thế, trong mắt nàng giờ đây tôi hầu như không còn tồn tại. Tôi ghen với hắn. Tôi giận nàng. Sâu thẳm trong tâm hồn tôi là một nỗi buồn vô tận, ngày một lớn dần lên. Tôi là một cậu bé con, tâm hồn tôi trong sáng, bởi thế lòng tôi không biết căm thù. Chưa bao giờ tôi có ý định trả thù nàng hoặc hắn. Nhưng tôi buồn lắm. Tôi ghét nàng nên dần bỏ tất cả những cuộc chơi có nàng tham dự. Nhưng tôi càng nhớ nàng nhiều hơn. Nhớ trò chơi "mẹ con" nhiều hơn...
Chuyện buồn vui của tôi chấm dứt nhanh chóng vì chiến tranh bùng nổ. Những chiếc máy bay phản lực của giặc Mỹ dữ tợn xuất hiện ngày càng nhiều trên bầu trời. Tiếng gầm rú của nó như xé toang mọi thứ. Bom đạn nổ ầm ầm. Nhà cửa đường sá bị phá hoại, người chết, người bị thương rất nhiều...
Chúng tôi được lệnh đi sơ tán gấp. Tôi theo cha mẹ lên sinh sống ở một vùng sơn cước, là nơi mà cha tôi xin được một chân dạy học. Từ đó bặt tin nàng.
Một năm sau, từ nơi sơ tán có lần tôi trốn học tìm về khu phố nhỏ của tôi. Nói một cách thi vị là tôi tìm về nơi tuổi thơ bình yên của tôi, tìm về với nàng, với tình yêu của tôi. Không ngoa! Bởi nếu không như thế sao một đứa trẻ tám tuổi, học lớp hai như tôi lại dám bỏ học, đi bộ mười mấy cây số, dằng dặc cả ngày dưới bom đạn chỉ để về thăm lại chốn xưa?! Thị xã Hà Tĩnh quê tôi, cái thị xã "bé như lòng bàn tay" - như sau này chúng tôi vẫn nói, lúc đó đối với tôi là cực kỳ đẹp, thơ mộng và lớn nữa. Tuổi thơ tôi chưa kịp đi hết chu vi thị xã. Nhưng tôi rất hạnh phúc vì đã có dịp được đi xem phim ở rạp chiếu bóng, xem kịch ở Nhà hát, hay xem đá bóng ở sân vận động trung tâm... Nhưng giờ đây chẳng còn gì nữa. Tất cả đều đổ nát. Tất cả đều bị san bằng bởi bom đạn Mỹ. Tôi chạy như bay, băng qua những con phố không còn thấy bóng người. Phố Lê Bình của tôi đây rồi. Nhưng nhà tôi, nhà nàng, và những căn nhà khác; cả nhà thầy Tuân nữa, đã cháy rụi, bừa bộn, tan hoang... Tôi đứng ngó trân trân cái khoảng không trống vắng trước mặt, giờ chỉ còn là hai cái nền đất, một lúc rất lâu. Không thấy nàng! Nàng đã không xuất hiện như trong truyện cổ tích, như tôi vẫn thầm mong trong suốt quãng đường mười lăm cây số từ nơi sơ tán chạy về đây. Nhà cửa không còn. Cây cột điện gãy ngang, đổ sụp xuống, trơ những cọng sắt đen sì. Chỉ duy nhất cây cột "Thằng Pháp hay ăn..." vẫn còn nguyên vẹn, như một chứng tích.
... Tiếng máy bay gầm rú đâu đó trên bầu trời kéo tôi về với thực tại. Tôi cắm đầu chạy một mạch trở về.
Thời gian trôi đi. Chiến tranh cứ kéo dài mãi. Nàng - mối tình đầu của tôi - tuổi thơ bé bỏng của tôi, khép dần vào đâu đó, một góc sâu kín nhất trong tâm hồn tôi. Cả hắn nữa, tôi chỉ còn nhớ hắn tên Thành, đẹp trai và có tài vắt đất sét...

***
Năm 1972, mười tám tuổi, vừa tốt nghiệp Trung học phổ thông, tôi nhập ngũ. Đơn vị tôi đăng nhập thuộc Tổng đội Thanh niên xung phong 552. Ngày nhập ngũ, trong đám tân binh đông như hội, tôi chợt nhìn thấy Hiền. Cô nổi bật lên giữa đám đông bởi dáng người cao như sếu, không lẫn vào đâu được. Tim tôi đập rộn ràng. Một cảm giác rất lạ tràn ngập trong tôi. Thứ cảm giác giống như ai đó bị mất của gia bảo, sau nhiều năm bỗng nhìn thấy. Hiền vẫn xinh đẹp như Hiền của tôi năm nào, tuy nước da có phần rám nắng nhưng trông có vẻ rắn rỏi, tự tin hơn trong bộ đồng phục thanh niên xung phong.
Tôi len lỏi băng qua đồng đội, gần như chạy lại với Hiền. Bước chân tôi bỗng khựng lại. Trước mắt tôi không chỉ có Hiền mà còn có cả hắn nữa - thằng Thành! Tôi nhận ngay ra hắn. Thành bây giờ khác hẳn, đã là một thanh niên cao lớn, khỏe mạnh và vẫn đẹp trai như xưa. Nhưng tôi chắc chắn một trăm phần trăm đó chính là Thành. Và nữa, nhìn ánh mắt hai người nhìn nhau, tôi thầm đoán chuyện gì đã xảy ra giữa họ. Rất may là tôi đã kịp ngăn lại tiếng hét gọi tên Hiền đang sắp vọt ra từ lồng ngực cháy bỏng của mình. Rất may là cả hai đều không nhận ra tôi, mặc cho tôi vẫn đứng như trời trồng ngay trước mắt, dương cặp mắt thô lố, lom lom nhìn họ.
Sau một đợt huấn luyện ngắn, cả tôi, Hiền và Thành được điều về một trung đội. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên, lý do là cấp trên sắp xếp trung đội 2, trung đội chúng tôi, toàn dân thị xã! Trung đội có bốn tiểu đội, ba nữ, một nam, bởi thế tôi và Thành cùng ở chung một lán, ngủ chung một sạp, cùng sinh hoạt với nhau.
Trung đội tôi, B2, là trung đội độc lập, có nhiệm vụ độc lập là bảo vệ ngầm Đá Bạc, một vị trí trọng yếu trên tuyến đường 21 giữa đại ngàn Trường Sơn. Dạo đó, quốc lộ 1, con đường huyết mạch Bắc - Nam hầu như đã bị bom Mỹ đánh phá hoàn toàn. Bởi thế, tất cả súng đạn, quân trang, lương thực, thực phẩm... tiếp viện cho chiến trường đều phải đi trên đường Trường Sơn. Chính quyền Mỹ cũng hiểu rất rõ tầm quan trọng chiến lược của con đường này nên quyết tâm đánh phá. Hàng trăm ngàn tấn bom đạn đổ xuống, bất kể ngày đêm. Thanh niên chúng tôi sát cánh cùng bộ đội chủ lực chia nhau bảo vệ những cung đường trọng yếu. Bắn trả máy bay giặc, san lấp, sửa chữa những đoạn đường bị tàn phá... Giặc đến là bắn, giặc đi lại sửa đường. Khẩu hiệu: "Thông đường là tất cả" là nhiệm vụ tối cao!
Lán tiểu đội 1 của tôi và Thành nằm trên cao, phía hữu ngạn, lán nữ ở phía dưới, phía tả ngạn, cách nhau bởi con suối nhỏ chảy qua ngầm Đá Bạc.
Hàng ngày chúng tôi ra mặt đường với đủ trăm công nghìn việc. Chiều tối mọi người mới trở về lán tắm rửa, nghỉ ngơi. Đó là khi không có máy bay địch đánh phá, nếu có lũ giặc đến thì bất kể ngày đêm chúng tôi vẫn có mặt trên đường. Tiểu đội tôi, tiểu đội pháo 12 li 7, có nhiệm vụ chính là bắn máy bay, ngăn cản và tiêu diệt địch. Tuy thế, bất cứ lúc nào rảnh rỗi là chúng tôi lại có mặt cùng chị em thông đường. Tay súng, tay xẻng, cả trung đội lúc nào cũng như đang tư thế xung phong. Công việc cực nhọc, gian nan và đầy bất trắc, nguy hiểm. Sự sống, cái chết chỉ có ranh giới mong manh. Bởi vậy cái tôi của mỗi người hầu như không còn chỗ đứng, bị khỏa lấp, hòa tan trong cái chung lớn lao, ý nghĩa, kiểu như là: "Tất cả cho tiền tuyến", "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ"...
Tôi ít nghĩ đến Hiền hơn, mặc dù ở đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn tôi hình ảnh cô bé Hiền ngày xưa của tôi vẫn không hề phai nhạt. Và, tình cảm của tôi với Hiền bây giờ tuy bị dồn nén nhưng vẫn cháy bỏng không nguôi. Tôi vẫn gặp Hiền hàng ngày trong khoảng thời gian nghỉ giải lao hiếm hoi, hoặc giờ ăn. Hiền trông đen xạm và gầy hơn. Có lẽ, cũng như tôi, Hiền (và tất cả mọi người nữa) đều phải cố gắng, phải nỗ lực với ý chí phi thường mới vượt lên được tất cả, vượt qua chính mình, để sống và chiến đấu. Hiền không nhận ra tôi. Điều đó làm tôi rất buồn. Có lẽ tôi đã không để lại mảy may ấn tượng trong Hiền. Cũng có thể do thời gian trôi qua quá lâu. Hơn mười năm còn gì?! Có thể tôi đã rất khác xưa. Bằng chứng là thằng Thành cũng chẳng nhận ra tôi. Tôi tự vấn, tự an ủi mình, nhưng vẫn không nguôi ngoai nỗi buồn, và càng chôn chặt tình yêu của mình, cũng như giấu kín thân phận mình trước cả Hiền lẫn Thành.
Thời gian trôi đi, tôi và Thành càng trở nên thân thiết. Những đêm nằm cạnh nhau, gác chân lên nhau, cùng dốc bầu tâm sự đã để chúng tôi gần gũi, thân thiết nhau hơn. Giống như tôi, Thành xuất thân trong một gia đình công chức, từ nhỏ chỉ biết chơi bời, học hành. Ba Thành là họa sĩ, làm giám đốc Sở văn hóa (thảo nào mới nhìn thấy Thành lần đầu, tôi đã có linh cảm hắn là đứa "con nhà"), là cơ quan mà cha mẹ Hiền công tác. Ngày chiến tranh bùng nổ, Sở văn hóa sơ tán về một vùng quê phía Tây Bắc thị xã. Từ đó Thành và Hiền cùng sinh sống, học hành với nhau cho đến ngày cùng nhau nhập ngũ. Thời gian với những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò và đưa tình cảm của hai người vượt qua ranh giới tình bạn lúc nào không hay. Tình yêu đến với họ một cách hết sức hồn nhiên, lặng lẽ nhưng thật trong sáng tuyệt trần, như là họ sinh ra là để yêu nhau, để cho nhau vậy. Bởi thế, khi Hiền có giấy gọi nhập ngũ, Thành đã xung phong lên đường ngay, mặc dù, với cương vị của ba Thành, ông có thể xin cho hắn hoãn nghĩa vụ để đi học đại học là điều chắc chắn.
Ở đơn vị, mối quan hệ tình cảm giữa Thành và Hiền mọi người đều biết rõ. Cả cán bộ tiểu đội, trung đội cũng biết nhưng không hiểu sao không ai chỉ trích hay cấm đoán (như theo qui định thời chiến), mà ngược lại, mọi người đều quan tâm, ủng hộ, động viên hai người. Có lẽ tình yêu thơ ngây, trong sáng của họ đã cảm hóa được mọi người, vượt qua được mọi rào cản, mọi qui chế. Tình yêu của họ có điều gì đó giống như là thứ ánh sáng kỳ diệu, như là một điều tốt đẹp, thơ mộng, một thứ biểu tượng của sự sống trong khung cảnh bom đạn chết chóc đang diễn ra từng phút từng giây. Cả tôi cũng vậy. Trong tôi không hề có cảm xúc ghen tuông với Thành, thứ cảm xúc mà trước đó mười năm đã chắc chắn có. Tôi trân trọng, nâng niu tình cảm của Thành và Hiền giành cho nhau. Có lẽ bởi tâm hồn tôi trong sáng một phần, phần nữa, ở cái nơi mà sự sống, cái chết chỉ là gang tấc và sự hy sinh lớn lao vĩ đại của mỗi một con người cho sự nghiệp cách mạng chung đang diễn ra mỗi phút giây, thì không thể nào có chỗ cho cái nhỏ nhen tồn tại...
Mấy hôm liền chiều nào cũng rảnh. Bọn Mỹ bận đánh phá tận đẩu đâu mà bỏ quên cung đường của chúng tôi. Mấy bữa nay, cứ chiều đến là thằng Thành trốn tôi đi biệt, không biết đi đâu. Tôi buồn tay, loay hoay trong lán một lúc rồi cầm cần câu ra suối. Tôi đặt tên cho con suối là "suối Đá hát". Con suốt chảy qua ngầm Đá Bạc không lớn nhưng nước trong vắt, có thể nhìn thấy từng đàn cá bơi tung tăng. Hai bên bờ suối là bạt ngàn cây du, loại cây có lán lá rộng, màu đỏ tím rực rỡ. Đôi khi rảnh rỗi, tôi ra suối, nằm ngửa mình trên một tảng đá to, ngắm nhìn bầu trời trong vắt qua tán lá, lắng nghe tiếng suối chảy róc rách nghe như tiếng hát ai xa đưa, tận hưởng cái không khí mát lành, thơm tho của rừng, của suối giữa buổi trưa hè oi nồng chan chát nắng, cảm thấy cuộc đời cũng đầy thi vị!
Tôi cầm cần câu, nhảy trên những tảng đá trắng, to như trâu đằm giữa suối, đi ngược về phía trên tìm chỗ câu cá. Bỗng tôi nhìn thấy thằng Thành. Nó đang cúi người lúi húi, chăm chú mài dũa vật gì. Thỉnh thoảng Thành ngước lên, đưa vật đó lên trời soi, ngắm.
- Hầy! Làm gì đây? - Tôi đập mạnh vai Thành.
- Ơ!... - Thành giật mình, nhìn tôi, toét miệng cười.
Thành giơ cho tôi xem chiếc nhẫn mà hắn đang làm dở. Đó là một chiếc nhẫn làm từ một mảnh máy bay Thành nhặt được đâu đó. Chiếc nhẫn thật đẹp, bóng loáng. Trên mặt nhẫn có khắc hình một đôi chim câu đang tung cánh bay về cùng một hướng; giữa có khắc hai chữ "T.H" viết hoa, lồng vào nhau. Nét khắc rất điệu đà, tinh xảo. Nhất là đôi bồ câu, tuy nhỏ nhưng thật có hồn, thật sống động. Tôi thầm thán phục tài năng của Thành. Quả thực, hắn có đôi bàn tay vàng.
- Thế nào? Đẹp không? - Thành hỏi.
- Tuyệt vời. Chắc Hiền thích lắm!
- Tối nay tao sẽ mang tặng cô ấy. Mày đi câu đi, để tao làm nốt.
Tối đó Thành về muộn. Mọi người đã ngủ, hắn lén đi nhẹ trên sạp đến chỗ tôi. Để nguyên cả quần áo ướt đẫm sương, Thành ôm chặt lấy tôi, không giấu giếm vẻ hạnh phúc.
- Thế nào? - Tôi hỏi.
- Tuyệt vời. Nàng thích lắm. Nhưng... buồn cười quá
- Làm sao?
- Bọn tao nói chuyện rất lâu, đủ thứ hầm bà lằng. Đến đoạn "cao trào", trước khi tặng nhẫn cho nàng để nói "Anh yêu em", tao phải lựa thế, xoay chiều, lén đứng lên một hòn đá, rồi hôn...

Chúng tôi rinh rích cười. Cả tôi với Thành đều lùn, chỉ khoảng mét sáu, so với Hiền còn thấp hơn nửa cái đầu.
- Sao từ trước tới giờ mày không "trình bày" lại chọn thời điểm này mà tỏ tình? - Tôi hỏi.
- Hôm nay là sinh nhật tao. Vẫn biết là tao không cần nói gì thì Hiền cũng cảm nhận được tình yêu mà tao dành cho cô ấy. Cũng như tao cũng cảm nhận được tình yêu Hiền dành cho tao. Thế nhưng... - Giọng Thành trầm xuống - Chiến tranh ác liệt quá. Sống chết chẳng biết thế nào mà lường. Tao lo. Tao linh cảm... Không! Tao sợ điều gì đó... - Thành nói lấp lửng, giọng trống vắng, xa xăm.

- Sợ đếch gì. Sống chết có số. - Tôi nói to, cố ý át lời Thành.

0 comments: